
“Hôm nay cộng đoàn dân Chúa tề tựu ở đây để đón nhận một sự kiện chưa từng có trong lịch sử giáo hội Công Giáo Việt Nam: Một người con của giáo xứ này-ông Gioan Baotixita Lê Đức Thịnh, được chính thức đón nhận sắc phong tước phẩm cao quý bậc nhất – hiệp sĩ của Giáo Hội, do Đức Giáo Hoàng trao ban,” lời của vị dẫn lễ vang lên giới thiệu đầu buổi Thánh lễ cách đây 18 năm, Tháng Mười Một, 2007.
Tôi là người tham dự Thánh lễ hôm ấy, và rất ngạc nhiên khi thấy hàng trăm vị linh mục trong lễ phục vàng lần lượt tiến vào Thánh đường mang tên Phúc Nhạc giữa tiếng trống, nhạc vang rộn ràng. Giáo dân tham dự Thánh lễ đông vô kể, ai cũng ăn mặc đẹp như cùng đang bước vào ngày hội lớn của giáo xứ giữa trung tâm vùng xóm đạo Gia Kiệm.
Tôi là khách không mời, cũng không là người dân trong xứ đạo, nên phải đứng thập thò góc sân theo dõi, rồi trở lại thành phố Sài gòn, mang theo nhiều câu hỏi. Tước phẩm này có ý nghĩa gì, làm sao một người đàn ông còn rất trẻ lại được Tòa Thánh và giáo hoàng biết tới?
Tôi là khách không mời, cũng không là người dân trong xứ đạo, nên phải đứng thập thò góc sân theo dõi, rồi trở lại thành phố Sài gòn, mang theo nhiều câu hỏi. Tước phẩm này có ý nghĩa gì, làm sao một người đàn ông còn rất trẻ lại được Tòa Thánh và giáo hoàng biết tới? Ông không phải thuộc hàng linh mục hay tu sĩ, vì bên cạnh ông là người vợ trẻ, rất xinh đẹp. Vậy, ông có những công trạng hay dấu ấn gì?
Hôm ấy, các linh mục chủ tịch Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, chủ tịch Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin và giám mục Giáo Phận Xuân Lộc được ủy quyền đại diện Đức Giáo Hoàng Benedict, công bố và trao sắc phong cùng các phẩm phục cho vợ chồng ông, cũng chỉ nói ngắn gọn rằng: “Anh chị đã có nhiều đóng góp vượt trội cho Giáo Hội, đất nước, cho cộng đồng và thế giới.”
Chẳng một ai nêu rõ những đóng góp gì của ông vào “sự nghiệp vĩ đại” đó cho giáo dân được biết.
Ông là ai?
Tôi âm thầm lần theo dấu của ông, và được biết 18 năm qua và nhiều năm trước đó, ông âm thầm làm việc, không phô trương không quảng bá hình ảnh trước một cộng đoàn tín hữu có đến 7-8 triệu người trong cả nước.
Nói cho công bằng, ông có thể có một hình ảnh đáng ngưỡng mộ hơn rất nhiều các “đấng bậc” khác, bởi đã có một vị giám mục nhắc lại với tôi lời nhận xét từ một tổng trưởng Thánh bộ của Vatican rằng: “Tòa Thánh có thể tìm ra một lúc cả chục ứng viên đủ điều kiện để phong giám mục cho Việt Nam, nhưng để tìm ra được một con người như ông Lê Đức Thịnh thì chắc rất khó…”
Đầu những năm 2000, giáo dân nhiều nơi bị coi như thứ công dân loại 2, loại 3. Tại Đồng Nai lúc ấy, các vùng xứ đạo không được cung cấp các hạ tầng kỹ thuật và xã hội thiết yếu. Nhiều linh mục, tu sĩ bị chính quyền địa phương theo dõi, tìm cách đặt điều để bắt giữ. Trong đó có linh mục P.N.H., bị gán cho một tội nặng, phạm 10 điều răn của Chúa. Trong khi nhiều người không ai dám lên tiếng, ông Thịnh dũng cảm đứng ra bảo vệ, làm rõ những điều vô lý trong bản luận tội, và cuối cùng lấy lại được tự do và danh dự cho linh mục H.
Ông Lê Đức Thịnh không là luật sư, không một ngày bước chân tới trường luật, thậm chí lúc ấy còn chưa từng biết trường luật nằm ở đâu. Ông sống ở trong những khu lao động nghèo, làm đủ thứ nghề lao động vất vả để sinh sống.
Những người được ông giúp đỡ hay nói: “Có Thánh Thần trong con người ông lên tiếng, để không ai chối lại được.” Thánh Thần Chúa còn rất nhiều lần lên tiếng qua môi miệng ông, để ông có thể tham gia lấy lại được nhiều cơ sở vật chất, hay kích hoạt lại được hoạt động cho các dòng tu nam, nữ khắp từ nam ra bắc; thu xếp để nhiều linh mục, tu sĩ có thể được cấp phép ra nước ngoài tu học, trong số đó, có nhiều vị đang giữ trọng trách tại Giáo Hội Việt Nam.

Nhiều đối tác không thể nào tin ông có khả năng làm được cho giáo hội những điều ấy với trình độ học vấn chỉ hết lớp 9.
Các câu chuyện về đất đai của Thánh Địa Lavang, về nhà thờ và Dòng Mến Thánh Giá Thủ Thiêm; về việc thành lập mới giáo phận Bà Rịa từ chia tách giáo phận Xuân Lộc, xây dựng nhà thờ chính tòa Bà Rịa; thành lập Đại Chủng Viện Xuân Lộc; việc thành lập các giáo xứ, giáo họ mới tại các “vùng trắng” (vùng Công Giáo không được phép hoạt động công khai) từ 20-30 năm trước, nay có linh mục coi xứ, có đất xây dựng nhà thờ, đặc biệt tại Kontum, Đắk Lắk và Tây Nguyên; việc Trung Tâm Hành Hương Đức Mẹ Núi Cúi, một vùng núi rừng thuộc huyện Tánh Linh (Bình Thuận) được tổ chức các thánh lễ nửa đêm 13 hàng tháng… Ai cũng nghĩ đây là kết quả từ phía giáo quyền các cấp, nhưng thật ra chính ông là người mở màn cho các đàm phán với các cấp chính quyền từ các bộ, ngành trung ương (quốc phòng, xây dựng, ban tôn giáo chính phủ…) tới chính quyền địa phương, mà một kết quả đạt được phải đạt được hàng chục ý kiến đồng thuận bằng văn bản chính thức…
Phức tạp và kéo dài nhất là các vấn đề liên quan tới đất đai, cơ sở vật chất của giáo hội.
Giám Mục Đa Minh Nguyễn Chu Trinh từng thừa nhận với hàng ngũ giáo sĩ của giáo phận Xuân Lộc rằng, những gì ông Lê Đức Thịnh làm cho giáo phận này, nếu tính ra tiền sẽ lên tới hàng chục triệu đôla. Ngài cũng có ý muốn thay mặt giáo phận để “đáp đền” ông một chút gọi là…, nhưng ông khéo léo từ chối.
Một vài người bạn thân thiết của ông nói rằng, nếu chỉ lấy “phí dịch vụ” một phần trăm giá trị đất đai hay các cơ sở vật chất khác mà ông đã “ngoại giao” thu hồi lại cho giáo hội, lợi quả đó sẽ rất lớn, đủ cho gia đình ông thỏa thuê, dư dật tới mấy đời con cháu.
Ông chỉ có một người con gái duy nhất, vợ chồng ông cũng xuất thân từ những người nghèo khổ, nhưng không có nhu cầu xe sang, hàng hiệu, biệt phủ lát vàng. Lợi nhuận từ cơ sở chế biến cà phê nhỏ ở Di Linh (Lâm Đồng) của ông đầu tư từ mấy chục năm trước, đủ cho các hoạt động “ăn cơm nhà, vác tù và hàng tổng” của ông.
Đa số các giám mục trong cả nước đều biết rõ những gì ông làm cho giáo hội tại chính giáo phận mình. Nếu có dịp tổng hợp lại, chắc hẳn là cả một núi thành quả, với hàng trăm vụ việc lớn nhỏ. Điều gì cũng đáng kể, đáng nói, nhưng lớn nhất, đáng kể nhất là từ ông, một nhịp cầu “Đối Thoại và Phục Vụ” được nối liền giữa Giáo Hội và chính quyền sở tại.

Người xây dựng hòa bình
Đức Hồng Y Peter Turkson, nguyên bộ trưởng Thánh Bộ Phát Triển Nhân Bản Toàn Diện, đã từng gọi ông là “Người xây dựng hòa bình.” Nhận xét này của Ngài, không chỉ qua những gì ông đã đạt được cho Giáo Hội trong bối cảnh đạo đời còn không ít những xung đột về ý thức hệ, và những bóng tối của lịch sử còn lảng vảng khắp nơi.
Ông còn xây dựng hòa bình, bằng sự khiêm hạ, không tranh cãi, biện minh cho mình trước một vài vu khống, chụp mũ cho ông trên mạng xã hội, hay trong các tin đồn thổi ở nơi này, nơi khác. Ngoài chuyện vu cáo ông trong đời sống gia đình, họ còn bảo ông là cộng sản, ít nhất cũng là tay chân của cộng sản, vì theo họ, nếu không thế, ông chẳng thể làm được gì.
Thật sự ông làm được không ít chuyện “tày trời.” Ví như cuộc bạo động của một vài người dân tộc thiểu số tấn công vào trụ sở công an xã ở huyện Cư Kuin (Đắk Lắk) hồi Tháng Sáu, 2023, ngay sau khi tình hình được kiểm soát, thì ông, gia đình và một vài thân hữu là những người đầu tiên tới viếng thăm các nạn nhân và cư dân trong vùng. Trước đó, giữa đại dịch COVID-19, ông xin được 30,000 liều tiêm chủng ngừa, và tổ chức các đoàn bác sĩ cùng ông đi khắp nơi giúp những người yếu thế không phân biệt lương giáo.

Ngôi nhà của ông là nơi lui tới của không ít chức sắc trong phẩm trật Hội Thánh, từ Vatican. Tuy chẳng có thông báo chính thức nào về vai trò của ông trong việc nối kết tiến tới các quan hệ bình thường hiện nay giữa Việt Nam và Tòa Thánh Vatican, nhưng thật sự ông đã và đang còn là chất xúc tác vững bền và rất đáng tin cậy cho quan hệ giữa hai bên.
Suốt hơn 20 năm qua, kể từ trước khi được sắc phong tước phẩm hiệp sĩ của Tòa Thánh, ông có hàng trăm chuyến đi thiện nguyện, mà ông thích gọi là những chuyến “hành hương trở về với ông chị em mình” ở khắp mọi miền tổ quốc. Ở đó là những thân phận nghèo, hình ảnh của Thiên Chúa làm người. Ông đến để chia sẻ, cùng đồng hành còn có những người bạn trẻ tuy không đồng đạo nhưng chung niềm hy vọng về ngày mai.
Hiệp Sĩ Đại Thánh Giá
Tước phẩm ông Gioan Lê Đức Thịnh được đón nhận sắc phong cách nay 18 năm, là Hiệp Sĩ Đại Thánh Giá, phẩm hàm Thánh Gregorio Cả-được mang phẩm phục, nhẫn, huy hiệu Thánh Giá cỡ lớn nhất và kiếm hiệp sĩ.

Trong 13 vị được sắc phong mang tước phẩm cao trọng bậc nhất của phẩm hàm Thánh Gregorio Cả, ông là người đầu tiên và duy nhất của Việt Nam và Á châu tính tới thời điểm hiện nay (2025).
Trong số các hiệp sĩ Đại Thánh Giá tiền bối đó, có những nhân vật rất nổi bật: Otto Von Habsburg (Thái tử cuối cùng của đế chế Áo-Hung); Peter Cósgrove (Toàn quyền Úc); Abdon Cìfuentes Espinoza (chính trị gia Chile); Alice Von Hildebrand (triết gia); Riccardo Muti (nhạc trưởng lừng danh Ý)…
The post Hiệp Sĩ Đại Thánh Giá thứ 13 của Giáo Hội là người Việt Nam appeared first on Saigon Nhỏ.

