Tuần báo nổi tiếng của Anh, The Economist (trong số ra ngày 23 Tháng Giêng 2024) vừa có một bài ngắn phân tích về bức tranh chính trị-kinh tế Việt Nam. Xã luận này có gì đáng chú ý? Dưới đây là những ý chính…
Ngày 12 Tháng Giêng, nhà lãnh đạo 79 tuổi Nguyễn Phú Trọng đã không gặp Tổng thống Indonesia. Tên ông Trọng bị xóa khỏi lịch chính thức mà không có lời giải thích. Tin đồn lan truyền rằng ông đã chết. Trong suốt ba ngày, thiên hạ đồn đoán về người kế nhiệm ông… Sau đó, ngày 15 Tháng Giêng, các phương tiện truyền thông chính thức cho thấy hình ảnh ông Trọng yếu đuối dự một phiên họp chán ngắt của Quốc hội ở Hà Nội, như thể để hét lên “Tôi chưa chết!” – giống như gã nạn nhân bệnh dịch của gánh xiếc hài Monty Python. Công chúng có thể không bao giờ biết liệu bệnh tật hay điều gì khác đã khiến người đứng đầu Đảng Cộng sản biến mất.
Mọi người đều muốn trở thành bạn của Việt Nam. Điều này một phần là yếu tố địa chính trị. Việt Nam, quốc gia với dân số 100 triệu, đã khéo léo đặt họ vào vị trí giữa Trung Quốc và Mỹ, khiến cả hai siêu cường phải ra sức tán tỉnh. Năm 2023, Việt Nam là quốc gia duy nhất vinh dự đón các chuyến thăm cấp nhà nước của Joe Biden lẫn Tập Cận Bình. Tháng Chín 2023, họ đã nâng cấp mối quan hệ với Mỹ lên “đối tác chiến lược toàn diện”, đặt ngang hàng với Nga và Trung Quốc.
Dù đảng cầm quyền Việt Nam có nhiều điểm chung với đảng (cộng sản) Trung Quốc, nhưng người dân Việt Nam vẫn luôn nghi ngờ người hàng xóm khổng lồ luôn bày trò bắt nạt. Một cuộc thăm dò của Asian Barometer cho thấy chỉ 25% người Việt Nam có cái nhìn tích cực về Trung Quốc, trong khi 85% có cái nhìn tích cực về Mỹ… Khi Việt Nam bắt đầu mở cửa giữa những năm 1980, thu nhập bình quân đầu người hàng năm chỉ bằng một nửa so với Kenya. Nhờ các chính sách thực tế và ngày càng ủng hộ doanh nghiệp, thu nhập bình quân giờ đây tăng gấp sáu, lên $3,700. Tham vọng đưa Việt Nam trở thành nước giàu vào năm 2045 không phải không có lý. Về mặt kinh tế, Việt Nam có lẽ chưa bao giờ đối mặt một môi trường toàn cầu lành tính hơn thế.
Địa chính trị đang thúc đẩy đầu tư vào đất nước này, khi Mỹ tìm cách tách khỏi Trung Quốc và các công ty tư nhân thuộc mọi quốc tịch cảm nhận được gió đang thổi theo hướng nào. Các công ty xuất khẩu sang phương Tây đang chuyển sản xuất sang Việt Nam. Trong ba quý đầu năm 2023, dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam tính theo tỷ trọng trong GDP lớn gấp đôi Indonesia, Philippines hoặc Thái Lan, theo tính toán của ngân hàng CLSA.
IMF nhận định, nếu thế giới tiếp tục bị phân mảnh thành các khối thương mại cạnh tranh nhau, nền kinh tế toàn cầu có thể bị thiệt hại nghiêm trọng. Và với tỷ lệ linh kiện Trung Quốc chiếm tỉ lệ cao trong nhiều sản phẩm được dán nhãn “Made in Vietnam”, không rõ Mỹ thực sự đang giảm sự phụ thuộc vào Trung Quốc đến mức nào bằng cách chuyển chuỗi cung ứng sang đó. Nhưng cho đến nay sự thay đổi này vẫn có lợi cho Việt Nam.
Tăng trưởng GDP rất gập ghềnh: Sụt giảm trong thời kỳ đại dịch, tăng trở lại 8% vào năm 2022, giảm xuống 4.7% vào năm 2023 trong bối cảnh khủng hoảng tín dụng và dự kiến sẽ phục hồi lên 5.8% trong năm nay. Tuy nhiên, Việt Nam vẫn ở vị trí thuận lợi để tiếp tục thu hút đầu tư – Tony Nafte thuộc CLSA lập luận. Việt Nam cởi mở trong thương mại so với các nước Đông Nam Á. Thương mại vào năm 2022 tương đương với con số khổng lồ là 186% GDP, so với 45% ở Indonesia, 72% ở Philippines và 134% ở Thái Lan.
Lực lượng công nhân sản xuất trẻ, dồi dào của Việt Nam rất siêng năng, có trình độ học vấn khá cao và lương bổng chỉ bằng một nửa so với công nhân ở các vùng ven biển Trung Quốc. Một ông chủ nhà máy nhận xét rằng Việt Nam, không như Indonesia và Philippines, không gặp vấn đề gì với chủ nghĩa khủng bố Hồi giáo. Việt Nam cung cấp những ưu đãi béo bở cho giới nhà đầu tư nước ngoài, từ giảm thuế đến giá đất rẻ…
Tuy nhiên, đất nước này đang gặp phải một vấn đề chính trị lớn: Chính phủ bị tê liệt vì sự thiếu quyết đoán. Nguyễn Phú Trọng phải rút lui trước năm 2026. Nỗi hoảng sợ về tin đồn Trọng “băng hà” nhắc mọi người rằng thành công trong cuộc chiến chống tham nhũng của ông vẫn chưa rõ ràng. Do chẳng ai biết mình phải làm hài lòng ai trong vài năm tới, các quan chức ngần ngại đưa ra những quyết định quan trọng. Cuộc trấn áp tham nhũng bằng chiến dịch “đốt lò” do Trọng khởi xướng khiến họ càng lo lắng hơn. Hàng trăm người đã bị bắt, và năm ngoái chủ tịch nước (người đứng thứ ba trong hệ thống cấp bậc) đã bị buộc phải từ chức.
Trong cuộc cải tổ sắp tới, bất kỳ vụ bê bối nào cũng có thể được sử dụng để hủy hoại sự nghiệp của họ, hoặc tệ hơn. Do đó, cách an toàn nhất là không làm gì. Thử xem xét ngành năng lượng. Việt Nam đã làm rất tốt việc kết nối lưới điện hộ gia đình (gần 100% dân cư nông thôn có điện, tăng từ 14% năm 1993). Nhưng khi ngành công nghiệp phát triển thì nhu cầu về điện tăng theo. Một ông chủ sản xuất cho biết nguồn cung cấp điện rất chập chờn. Việc cắt điện năm ngoái là “khủng khiếp”.
Dù giới đầu tư nước ngoài muốn nói với khách hàng và cổ đông rằng họ muốn sử dụng năng lượng sạch nhưng Việt Nam đang gặp khó khăn khi nước này vẫn phụ thuộc nhiều vào than đá. Không khí ô nhiễm ở Hà Nội còn tệ hơn Thượng Hải. Lời hứa đạt mức phát thải carbon bằng 0 vào năm 2050 chỉ có thể được thực hiện trừ khi đất nước tận dụng được gió từ bờ biển dài 3,000 km. Tuy nhiên, một nhà điều hành năng lượng gió phàn nàn rằng quy trình cấp phép khảo sát đáy biển để tìm địa điểm phù hợp là “cực kỳ chậm”. Ông thở dài: Có rất ít khung pháp lý cho việc lắp đặt tua-bin hoặc bán điện lên lưới điện. Các bộ liên quan hầu như không trao đổi với nhau, mọi việc đều phải thông qua nhà cung cấp điện quốc doanh…
Giới bảo vệ môi trường phàn nàn rằng các nhóm lợi ích (tức là các ông lớn đã đầu tư vào than) đang cản trở quá trình chuyển đổi năng lượng của đất nước. Một số nhà bảo vệ môi trường đã bị bỏ tù, với tội “gian lận thuế”. Trong khi đó, một số người trong đảng cầm quyền hiểu rằng Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng như thế nào bởi hiện tượng nóng toàn cầu. Đồng bằng Mekong đang chìm, có nghĩa biển có thể nuốt chửng nó.
Việt Nam phụ thuộc nhiều vào thương mại và môi trường kinh doanh toàn cầu vốn đang thay đổi với tốc độ cực nhanh, do đó, các nhà hoạch định chính sách cần phải theo kịp. Thực tế lại không. Ví dụ, chính sách giảm thuế cho các nhà đầu tư nước ngoài đã trở nên kém hấp dẫn hơn kể từ khi OECD, câu lạc bộ các nước giàu, đồng ý áp dụng mức thuế doanh nghiệp tối thiểu toàn cầu là 15%. Giám đốc một nhà sản xuất nước ngoài cảnh báo, các công ty đa quốc gia trả ít hoặc không trả gì ở Việt Nam có thể phải chịu mức phí cao hơn ở những nơi khác. Ông cho rằng thay vì đề nghị giảm thuế, chính phủ nên đơn giản hóa các quy định. Bruno Jaspaert, ông chủ của Deep C, một khu công nghiệp ở Hải Phòng, đồng tình: “Cơ hội là rất lớn nhưng quan liêu là vấn đề lớn nhất”. Các quy định thường mâu thuẫn; một số dự án cần sự phê duyệt của hàng chục bộ.
Ngoài ra, mạng giao thông công cộng còn kém. Và dù bị trấn áp nhưng tham nhũng vẫn gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Một doanh nhân nước ngoài phàn nàn việc phải tuân theo hai bộ quy tắc: Quy tắc chính thức, chẳng hạn đóng thuế hoặc tuân thủ qui định phòng cháy chữa cháy; và quy tắc không chính thức, như chi tiền cho quan chức địa phương để họ không làm khó dễ bằng những cuộc “kiểm tra”.
Việt Nam đã vươn lên từ tình trạng nghèo đói trầm trọng đến khá thịnh vượng chỉ trong một thế hệ. Nhưng nước này cần tiếp tục cải cách. Những cơn gió địa chính trị có thể thay đổi. Các đối thủ có thể cạnh tranh mạnh hơn. Trong khi đó, dân số Việt Nam đang già đi nhanh chóng. Dân số trong độ tuổi lao động sẽ giảm sau năm 2038. Và người dân nước này có thể chán đảng cầm quyền nếu mức sống không tiếp tục tăng nhanh. Chế độ nào cũng vậy, tương tự các nhà lãnh đạo, không thể tồn tại mãi.
The post Tuần báo Anh ‘The Economist’ nhận định gì về Việt Nam? appeared first on Saigon Nhỏ.